Không gian cá nhân Không_gian_giao_tiếp

Vòng phản ứng các nhân của Edward T. Hall đo bằng feet và mét
  • Khoảng cách thân mật khi ôm, tiếp xúc và thì thầm
    • Khoảng gần – nhỏ hơn 6 inches (15 cm)
    • Khoảng xa – 6 to 18 inches (15 đến 46 cm)
  • Khoảng cách cá nhân khi tương tác giữa bạn thân hay người nhà
    • Khoảng gần – 1.5 to 2.5 feet (46 đến 76 cm)
    • Khoảng xa – 2.5 to 4 feet (76 đến 122 cm)
  • Khoảng cách xã hội khi giao tiếp với người quen biết
    • Khoảng gần – 4 to 7 feet (1.2 đến 2.1 m)
    • Khoảng xa – 7 to 12 feet (2.1 đến 3.7 m)
  • Khoảng cách công cộng khi phát ngôn trước công chúng
    • Khoảng gần – 12 to 25 feet (3.7 đến 7.6 m)
    • Khoảng xa – 25 feet (7.6 m) hoặc xa hơn

Không gian cá nhân là khu xung quanh một cá nhân coi nó là của mình một cách vô thức. Hầu hết mọi người đánh giá cao không gian cá nhân của mình và cảm thấy không thoải mái, tức giận hoặc lo lắng khi không gian cá nhân của họ bị xâm lấn.[5] Sự cho phép ai đó đi vào không gian cá nhân và đi vào không gian cá nhân của một người nào đó là thước đo mức độ mối quan hệ của con người. Vùng thân mật là dành cho bạn thân, người yêu, con cái và những người ruột thịt. Một vùng khác được sử dụng cho trò chuyện giữa bạn bè, với tổ chức và thảo luận nhóm. Một vùng rộng hơn dành cho người lạ, những nhóm mới và những người mới quen. Vùng thứ tư dùng cho diễn thuyết, giảng dạy và kịch, về cơ bản, khoảng cách xã hội là vùng dành cho một lượng khán giả lớn hơn.[6]

Gia nhập vào không gian cá nhân của một ai đó thường biểu thị của tính gia đình và đôi khi là tình thân. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, nhất là trong cộng đồng thành thị đông đúc, rất khó để duy trì không gian cá nhân, ví dụ như khi trên một chuyến tàu, trong thang máy hay một con phố đông đúc. Mặc dù nó được chấp nhận như một hiện thực của cuộc sống, nhưng một số người có tâm lý bị làm phiền hoặc không thoải mái trong khoảng không vật lý này.[5] Trong hoàn cảnh phi cá nhân, đông đúc thì giao tiếp bằng mắt gần như là điều cấm kị. Kể cả ở những nơi đông đúc, duy trì không gian cá nhân vẫn là điều quan trọng, sự thân mật và những tiếp xúc giới tính, như là cọ xát hay mò mẫm là những tiếp xúc vật lý không thể chấp nhận.

Amiđan được coi là một phần trong quá trình phản ứng trước sự xâm phạm không gian cá nhân vì sự biến của chúng khi bị tổn thương và kích thích khi con người tiếp cận vật lý.[7] Các nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa amiđan với những cảm xúc phản ứng đối với sự gần gũi với những người khác. Đầu tiên, nó sẽ bị kích thích bởi sự tiếp xúc. Thứ hai, những người bị tổn thương song phương ở amiđan, giống như các trường hợp bệnh nhân S.M., thường ít có cảm giác về ranh giới của không gian cá nhân.[7] Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng: “Chúng tôi đang tìm manh mối cho việc amiđan có thể là trung gian cho lực đẩy duy trì một khoảng cách tối thiểu giữa con người. hơn nữa, kết quả mà chúng tôi tìm ra cho thấy những chú khỉ với tổn thương amiđan song phương thường gần gũi với những chú khỉ khác và con người nhiều hơn, một việc mà chúng tôi cho rằng bắt nguồn từ sự vắng mặt của yếu tố phản ứng mạnh khi không gian cá nhân bị xâm phạm.”[7]

Không gian cá nhân của mỗi người thường gắn liền với họ cho dù họ đi bất cứ đâu. Nó chính là hình thức lãnh thổ không thể xâm phạm.[8] Theo Hall, không gian và tư thế của cơ thể là những phản ứng không chủ ý đối với những biến động hoặc thay đổi của giác quan, chẳng hạn như sự thay đổi tinh tế trong thanh âm và cao độ giọng nói của một người. Theo những sự mô tả dưới đây thì khoảng cách xã hội chắc chắn có sự tương quan với khoảng cách vật lý, cũng tương tự như vậy với khoảng cách thân thiết và khoảng cách cá nhân. Hall không cho đó là một thước đo cho sự định hướng nghiêm ngặt được giải nghĩa chính xác hành động con người, mà hơn hết đó là một hệ thống đánh giá ảnh hưởng của khoảng cách tới giao tiếp và sự ảnh hưởng này đa dạng như thế nào giữa các nền văn hóa và điều kiện môi trường khác nhau.

Sinh trắc học

Bổ sung cho khoảng cách vật lý, mức độ thân mật trong đối thoại có thể xác định bởi “hệ trục xã hội” hay “góc hình thành bởi các trục vai của người đối thoại”. Hall còn nghiên cứu về kết hợp của cử chỉ giữa hai cá nhân bao gồm nằm, ngồi và đứng. Những tư thế đa dạng này bị ảnh hưởng bởi một loạt các yếu tố phi ngôn ngữ được liệt kê dưới đây.

  • Yếu tố vận động: Phạm trù này đề cập đến việc những người tham gia tiếp xúc gần gũi như thế nào, từ hoàn toàn bên ngoài khoảng cách tiếp xúc đến những tiếp xúc vật lý, khi mà cơ thể tiếp xúc với nhau và ở một tư thế nhất định. 
  • Quy tắc tiếp xúc: Phạm trù hành vi này quan tâm tới cách mà người tham gia tiếp xúc với một người khác, chẳng hạn như vuốt ve, ôm, cảm nhận, ghì chặt, chạm nhẹ, dựa vào nhau, tình cờ cọ xát, hoặc không hề tiếp xúc. 
  • Quy tắc trực quan: Phạm trù này biểu thị số lượng giao tiếp bằng ánh mắt giữa những người tham gia. Bốn phạm trù con trong đó được sắp xếp theo mức độ từ giao tiếp mắt-với-mắt cho đến không hề có sự giao tiếp bằng mắt. 
  •  Quy tắc nhiệt: Phạm trù này biểu thị lượng nhiệt cơ thể mà mỗi người tham gian nhận được từ người khác. Bốn phạm trù con được xác định là: tiến hành sinh nhiệt, bức xạ sinh nhiệt, có thể sinh nhiệt, và không tạo ra nhiệt. 
  • Quy tắc khứu giác: Phạm trù này đề cập đến loại và mức độ phát hiện mùi bởi mỗi người tham gia với người khác. 
  • Âm lượng giọng nói: Phạm trù đề cập tới nỗ lực phát âm sử dụng trong lời nói. Bảy phạm trù con xác định là: im lặng, rất nhỏ, nhỏ, bình thường, bình thường +, lớn và rất lớn.  

Không gian tâm lý học thần kinh

Tâm thần học miêu tả không gian cá nhân trong giới hạn các loại ‘sự gần gũi’ đối với cơ thể

  • Không gian cá nhân bổ sung: Không gian tồn tại bên ngoài tầm với của cá nhân.
  • Không gian trong tầm với: Không gian nằm trong tầm với của bất kì chi nào của cá nhân. Do đó “nằm trong tầm tay” nghĩa là nằm trong peripersonal space của một người.
  • Không gian tiếp xúc: Là không gian ngay bên ngoài cơ thể con người cũng có thể là ngay gần có thể chạm tới. Nhận thức thị giác và thính giác đều ảnh hưởng tới không gian này, ví dụ như có thể nhìn thấy một chiếc lông vũ không chạm vào da của họ nhưng vẫn có thể cảm nhận mơ hồ như chạm nhẹ khi nó lơ lửng ngay bên trên bàn tay họ. Những ví dụ khác như là gió thổi, luồng không khí, sự tỏa nhiệt...[9]

Previc[10] còn chia nhỏ không gian cá nhân bổ sung thành không gian cá nhân tiêu cự bổ sung, không gian cá nhân hành động bổ sung và không gian cá nhân môi trường bổ sung. Không gian cá nhân tiêu cự bổ sung là khoảng không nằm ngang theo đường thái dương – trán, gắn liền với vị trí của mắt và liên tham gia vào sự tìm kiếm và nhận thức vật thể. Không gian cá nhân hành động bổ sung nằm trên đường thái dương – trán, liên quan đến định hướng và chuyển động trong không gian địa hình. Không gian cá nhân hành động bổ sung cung cấp “sự hiện diện” của thế giới chúng ta. Không gian cá nhân môi trường bổ sung điều khiển tư thế và định hướng với mặt đất cố định/ không gian trọng trường.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Không_gian_giao_tiếp http://www.amazon.com/Charisma-Seven-Developing-Ma... http://www.businessinsider.com/the-lewis-model-201... http://www.crossculture.com/services/cross-culture... http://www.esfmedia.com/page/Cinematography+-+Prox... http://search.proquest.com/docview/751260175?accou... http://dictionary.reference.com/browse/proxemics http://www.cod.edu/people/faculty/pruter/film/scpr... http://courses.csusm.edu/fmst300bc/mise.html http://www.jstor.org.proxy.library.georgetown.edu/... http://filmstudies.uncc.edu/sites/filmstudies.uncc...